Lịch sử hoạt động Consolidated_B-24_Liberator

Việc bố trí ban đầu

Chiếc B-24L số hiệu 44-49710 biệt danh "Stevonovitch II" thuộc Liên đội Ném bom 464, trúng đạn pháo phòng không 2 cm FlaK 30 trong khi hỗ trợ mặt đất gần Lugo, Italy, 10 tháng 4 năm 1945. Đại tá James Gilson, Chỉ huy trưởng Phi đội Ném bom 779 và chín người khác thiệt mạng, một xạ thủ súng máy hông bị văng ra và sống sót.

Việc bố trí những chiếc Liberator đầu tiên nhằm khai thác khả năng bay tầm xa khi những phi công vận chuyển Mỹ bay đến Anh Quốc và quay trở về nhà vào tháng 3 năm 1941. Phiên bản LB-30A phục vụ cho British Overseas Airways Corporation (BOAC) trong những nhiệm vụ vận chuyển xuyên Đại Tây Dương không lâu sau cũng tham dự vào nhiều nhiệm vụ vận chuyển các loại.[10] Vai trò nổi bật không thay thế được trong đợt sản xuất đầu tiên của kiểu Liberator GR I trang bị radar ASV Mark II hoạt động cho Bộ chỉ huy Duyên hải Không quân Hoàng gia Anh là tầm bay xa của nó "gần gấp đôi khả năng của các lực lượng trinh sát duyên hải Anh Quốc" [14] tại các phi vụ tuần tra chống tàu ngầm trong Trận chiến Đại Tây Dương.[2]

Cuối năm 1941, những chiếc Liberator II đầu tiên được đưa vào hoạt động. Kiểu máy bay này được trang bị thùng nhiên liệu tự hàn kín và các tháp súng vận hành bằng điện. Cùng lúc đó, Consolidated kéo dài thân trước thêm 79 cm (2 ft 7 in) để tạo thêm chỗ cho đội bay. Liberator II được chia sẻ giữa Bộ chỉ huy Duyên hải, Bộ chỉ huy Ném bom và BOAC. Hai phi đội Không quân Hoàng gia sau đó được bố trí sang Trung đông vào năm 1942 trong việc sử dụng lần đầu tiên chiếc Liberator như một máy bay ném bom.[15]

Cùng lúc đó, Không lực Lục quân Hoa Kỳ cũng bắt đầu nhận được những chiếc B-24A đầu tiên. Giống như người Anh, họ sử dụng chúng trước tiên như là phương tiện vận tải. Các công việc tiếp tục phát triển bởi Consolidated tạo ra một số chiếc máy bay chuyển tiếp B-24C sử dụng động cơ có bộ turbo tăng áp thay cho bộ siêu tăng áp; kiểu động cơ có turbo tăng áp khiến nắp động cơ có hình bầu dục dẹp đặc trưng cho các phiên bản Liberator sau này.

Hoa Kỳ tham gia chiến tranh

Các phi công thuộc đơn vị Nữ Phi công Phục vụ Không lực (WASP) (từ trái sang phải) Eloise Huffines Bailey, Millie Davidson Dalrymple, Elizabeth McKethan Magid, Clara Jo Marsh Stember. Phía sau, một chiếc B-24.

Những chiếc B-24 Hoa Kỳ tham gia chiến đấu lần đầu tiên vào tháng 6 năm 1942 với trận ném bom gồm 13 máy bay xuất phát từ Ai Cập nhắm vào mục tiêu các nhà máy lọc dầu do Đức xây dựng tại Ploesti, Romania. Cuộc tấn công được mô tả bởi Lục quân là "không thành công" và nó báo động cho những người phòng vệ về những mối nguy mới, cho họ có thêm thời gian để bổ sung vũ khí phòng thủ. Một năm sau, khi 178 chiếc B-24 tấn công trở lại Ploesti trong Chiến dịch Tidal Wave (Sóng thủy triều) ngày 1 tháng 8 năm 1943, 53 chiếc đã không quay trở về.

Các phi đội Liberator được bố trí trên tất cả các mặt trận: Bắc Phi, Châu Âu, Đại tây Dương, Đông Nam ÁThái Bình Dương. Tại Thái Bình Dương, B-24 trở thành máy bay ném bom hạng nặng chủ yếu nhằm đơn giản việc tiếp liệu, thay thế cho những chiếc B-17 có tầm bay ngắn hơn, hoạt động không được nổi bật tại đây.

Khi chiến tranh tiếp diễn, sự phức tạp trong việc bảo trì những chiếc B-24 ngày càng lớn. Vì B-24 được sản xuất bởi nhiều hãng khác nhau, các cơ xưởng sửa chữa phải dự trữ một lượng lớn phụ tùng thuộc nhiều kiểu khác nhau để cung cấp cho nhiều phiên bản B-24 khác nhau. May thay, vào mùa Hè 1944, vấn đề trở nên nhẹ nhàng hơn khi ba nhà máy ngưng chế tạo B-24, chỉ còn lại nhà máy của Consolidated tại San Diego và của Ford ở Willow Run.

Tính đến tháng 9 năm 1945, có tổng cộng 18.482 chiếc Liberator được chế tạo. Bổ sung vào con số 12.000 chiếc phục vụ cho Không lực Lục quân Hoa Kỳ, Không quân Hoàng gia Anh sử dụng khoảng 2.100 máy bay trong 46 liên đội và 41 phi đội ném bom, Không quân Hoàng gia Canada có 1.200 chiếc B-24J, Hải quân Hoa Kỳ có khoảng 1.000 chiếc PB4Y-1 (và khoảng 800 chiếc PB4Y-2 Privateer là kiểu phát triển từ chiếc Liberator), Không quân Hoàng gia Australia (RAAF) có 287 chiếc B-24J, B-24L và B-24M - (Liberator là kiểu máy bay ném bom hạng nặng duy nhất mà RAAF hoạt động tại Thái Bình Dương). Hai phi đội của Không quân Nam Phi bố trí tại mặt trận Địa Trung Hải được trang bị B-24.

Tuần tra duyên hải

Xem thêm: PB4Y Privateer
PB4Y-2G Privateer thuộc lực lượng Phòng vệ Duyên hải Hoa Kỳ.

Chiếc Liberator đã đóng góp lớn vào Trận chiến Đại Tây Dương. Quyết định bố trí những chiếc Liberator B Mk I cho lực lượng Bộ chỉ huy Duyên hải Không quân Hoàng gia Anh lập tức đem lại kết quả. Những chiếc Liberator VLR (có tầm hoạt động rất xa) đã lấp được Khoảng trống Đại Tây Dương thiết yếu và là chiếc máy bay có tầm bay xa đủ để làm việc đó. Phiên bản VLR hy sinh vỏ giáp và thường là các tháp súng để có trọng lượng nhẹ trong khi mang theo các thùng nhiên liệu trong khoang chứa bom. Radar và đèn Leigh cho phép chúng có khả năng săn tìm những chiếc tàu ngầm U-boat cả ngày lẫn đêm. Chúng hoạt động từ cả hai bờ Đại Tây Dương với Không quân Hoàng gia Canada từ bờ Tây và Không quân Hoàng gia Anh từ Anh Quốc và Iceland. Tuy nhiên, B-24 cũng còn mong manh khi tấn công, đặc biệt là sau khi nhiều chiếc U-boat được trang bị pháo phòng không và sử dụng chiến thuật nổi trên mặt nước để chiến đấu. Phi công Lloyd Allan Trigg thuộc Không quân Hoàng gia New Zealand đã được truy tặng huân chương Chữ Thập Victoria sau một trận đấu tay đôi ngoài khơi Tây Phi. Chiếc Liberator của Trigg và toàn bộ đội bay bị mất, cùng với đối thủ của nó là chiếc tàu ngầm Đức U-468. Huân chương Chữ Thập Victoria của Trigg là một trong số ít những trường hợp được tặng thưởng do đề nghị từ quân nhân đối phương, bảy thủy thủ đoàn của chiếc U-boat còn sống sót.

Những phiên bản Liberator sau này có khả năng sống sót tốt hơn bên trên không phận Châu Âu bị chiếm đóng hay chống lại các máy bay tiêm kích của Phe Trục, nhưng vì các trang bị phòng thủ làm cho nó có trọng lượng nặng hơn, nó cũng có tầm bay ngắn hơn. Đã không có việc cải tiến hay thay thế các máy bay tuần tra cho đến giai đoạn cuối của chiến khi mà mối đe dọa từ những chiếc U-boat đã qua đi. Trong vòng 12 tháng, Phi đội 120 Bộ chỉ huy Duyên hải Không quân Hoàng gia Anh, với chỉ một tá chiếc Liberator đời đầu được cải tiến và chắp vá, đã cung cấp bảo vệ trên không duy nhất cho các đoàn tàu vận tải đi qua Khoảng trống Đại Tây Dương, ngay cả khi việc cung cấp B-24 cho các phi đội được tăng lên gấp đôi rồi gấp ba (không có chiếc Liberator nào phục vụ với tư cách máy bay ném bom cho Bộ chỉ huy Ném bom Không quân Hoàng gia Anh trong chiến tranh tại châu Âu, nhưng Phi đội 223 thuộc Liên đội Hỗ trợ Ném bom 100 được trang bị 20 chiếc Liberator mang các thiết bị gây nhiễu điện tử nhằm phản công các biện pháp phòng ngự của đối phương). Bước ngoặt đột ngột mang tính quyết định thuận lợi cho phe Đồng Minh của Trận chiến Đại Tây Dương vào tháng 5 năm 1943 là kết quả của nhiều yếu tố. Tuy nhiên, không phải là ngẫu nhiên khi nó trùng hợp với việc giao hàng đã bị trì hoãn kéo dài thêm nhiều chiếc VLR Liberator dùng cho việc tuần tra duyên hải. Những chiếc Liberator được ghi nhận chiến công hoàn toàn hay một phần trong việc đánh đắm 72 chiếc U-boat. Ngoài khả năng tuần tra với tầm bay rất xa, B-24 cũng có vai trò sống còn trong việc tuần tra với bán kính nhỏ hơn 1.609 km (1.000 dặm) tại Đại Tây Dương, và cả Thái Bình Dương nơi mà B-24 và PB4Y-1 gây tổn thất lớn cho tàu thuyền Nhật Bản. Có tổng cộng 977 chiếc PB4Y-1 thuộc Hải quân Mỹ được sử dụng trên Mặt trận Thái Bình Dương tại các phi đội VB và VPB.

Vai trò vận tải

Những kiểu Liberator đời đầu được sử dụng như là máy bay vận tải hàng hóa không vũ trang. Nó thực hiện những chuyến bay giữa Anh QuốcAi Cập (với một vòng rộng kéo dài ra Đại Tây Dương vòng qua Tây Ban Nha) và cũng được sử dụng trong việc rút lui khỏi đảo Java. Thành công này đã dẫn đến việc phát triển kiểu vận tải chuyên dùng, được biết đến dưới những tên như C-87 Liberator Express, RY-2, hoặc Liberator Cargo VII. Hoa Kỳ chỉ chế tạo khoảng 300 máy bay vận tải (so với tổng số hơn 18.000 chiếc các phiên bản khác) nhưng chúng lại chính là xương sống của các chiến dịch vận tải hạng nặng của Không lực Lục quân. Chiếc C-87 không được ưa thích đối với những đội bay nào buộc phải bay chúng. Chiếc máy bay thường phải chịu đựng tình trạng mất nguồn cấp điện khi cất cánh và hạ cánh, độ tin cậy kém của động cơ, và phi công gặp lúng túng khi kiểu cánh Davis bị uốn ở độ cao. Trong quyển tự truyện của mình, Fate is the Hunter, tác giả Ernest K. Gann cho biết, khi đăng bay chở hàng tại Ấn Độ, ông suýt nữa đã phải rơi chiếc máy bay C-87 vào đền Taj Mahal.

Không lực Lục quân Hoa Kỳ cũng chuyển đổi 218 chiếc B-24D và B-24E thành máy bay chở dầu C-109. Những máy bay này được sử dụng trên mọi chiến trường, nhưng chúng được sử dụng nhiều nhất trong Chiến dịch Hump. Chúng bay từ Ấn Độ, ngang qua Himalaya đến các căn cứ của máy bay B-29 đóng tại Trung Quốc. Với mọi thứ vỏ giáp và thiết bị quân sự được tháo bỏ cho nhẹ cân, chiếc C-109 có thể chở 11.000 L (2.905 gal) nhiên liệu nặng đến 10.000 kg (22.000 lb). Thêm vào đó, một số lớn máy bay B-24 không chuyển đổi bị buộc phải thực hiện các nhiệm vụ vận tải. Qantas Empire Airways sử dụng chiếc Liberator trên lộ trình Perth-Colombo, vào lúc đó là lộ trình không dừng chân dài nhất thế giới, cho đến khi nó được thay thế bởi những chiếc Avro Lancastrian.

Một chiếc Liberator II được tân trang thành máy bay vận tải hành khách VIP và được Winston Churchill sử dụng như là máy bay riêng của ông.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Consolidated_B-24_Liberator http://www.casa.gov.au/fsa/2000/jan/page49.pdf http://www.b24bestweb.com/ http://www.b24bestweb.com/b24bestweb-GOLD-CLUB-24.... http://www.chuckallan.com/history/History_44th.htm... http://info.detnews.com/history/story/index.cfm?id... http://www.navylib.com/ http://www.pacificwrecks.com/resources/tech/aircra... http://www.warbirdalley.com/b24.htm http://history.acusd.edu/gen/st/~jcollins/index.ht... http://www.hq.nasa.gov/office/pao/History/SP-468/c...